MỘT SỐ TÊN GỌI, BÍ DANH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Thứ bảy - 22/06/2024 05:24
MỘT SỐ TÊN GỌI, BÍ DANH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi qua rất nhiều quốc gia và nhiều lần thay đổi họ tên để đảm bảo bí mật. Mỗi tên gọi, mỗi bí danh của Người phần lớn đều gắn với những sự kiện lịch sử, những bước ngoặt quan trọng trong hành trình cứu nước và trong từng chặng đường của cách mạng Việt Nam.

Dưới đây là một số tên gọi và bí danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

  1. Nguyễn Sinh Cung - 1890

Nguyễn Sinh Cung là tên lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890, tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

  1. Nguyễn Tất Thành – 1901

Tháng 5-1901, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu phó bảng khoa thi Hội năm Tân Sửu. Khoảng tháng 9-1901, ông chuyển về sống ở quê nội xã Kim Liên. Theo tục lệ, ông Nguyễn Sinh Sắc được làng Kim Liên đón về và được làng cấp đất công, xuất quỹ làm cho một ngôi nhà. Nhân dịp này ông Nguyễn Sinh Sắc làm “lễ vào làng” cho hai con trai với tên mới: Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm), Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung). Thành Đạt là mong muốn của người cha đặt hy vọng vào hai con.

  1. Văn Ba – 1911

Với hoài bão, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin (Amirral Latouche Tresville), một tàu lớn vừa chở hàng, vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Mác Xây (Marseill), Pháp.

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc trên tàu.

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi, bắt đầu cuộc hành trình cứu nước. Trong sổ lương của tàu tên anh là Văn Ba.

Những người bạn làm việc với Văn Ba ở tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin (Amirral Latouche Tresville), đều thân mật gọi anh là Ba, anh Ba. Anh Ba sống giản dị, gần gũi với mọi người. Những việc làm của anh đã để lại ấn tượng, tình cảm tốt đẹp.

  1. Nguyễn Ái Quốc – 1919

Nguyễn Ái Quốc – cái tên bắt đầu một chặng đường mới trong hành trình cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp và bắt đầu hoạt động chính trị dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Song tên mới Nguyễn Ái Quốc thực sự được nhiều người biết đến khi Người thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, ngày 18-6-1919 gửi lên Hội nghị Vécxây bản yêu sách 8 điều của nhân dân Việt Nam, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Từ đây bắt đầu một thời kỳ hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc – linh hồn của những người Việt Nam yêu nước tại Pháp.

Trong khoảng thời gian từ 1919 đến 1926, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người viết nhiều tài liệu quan trọng đối với cách mạng Việt Nam: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927).

Sau lần bị bắt tại Hương Cảng năm 1931, mật thám Pháp tưởng Nguyễn Ái Quốc đã bị chết trong tù, vì những tin đồn do chính Luật sư Lôdơbi tung ra để bảo vệ Người thêm phần an toàn khi trốn tránh. Năm 1933, Nguyễn Ái Quốc chắp nối liên lạc được với các tổ chức cách mạng và Người đi Liên Xô tiếp tục con đường cứu nước của mình. Một thời gian dài Nguyễn Ái Quốc mất hút trong trong sổ điều tra của mật thám Pháp và mật thám Đông Dương. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trong lời kêu gọi: Kính cáo đồng bào, ngày 6-6-1941. Đến tận lúc này mật thám Đông Dương mới bàng hoàng được nguồn tin cho biết Già Thu, Thu Sơn xuất hiện ở biên giới Việt – Trung chính là Nguyễn Ái Quốc.

 

31185190 1943439099060333 8589220028704531069 n
 
Thẻ thư viện của Nguyễn Ái Quốc thu thập được tại Trung tâm Lưu trữ Sở Cảnh sát Pháp
 
  1. Vương – 1925

Bí danh của Nguyễn Ái Quốc xuất hiện từ đầu năm 1925, trong thời gian hoạt động tại Trung Quốc.

Đầu năm 1926, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị tại số nhà 13/1 (nay là 248 – 250) đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Người trực tiếp lãnh đạo và là giảng viên chính của các khóa học. Người lấy tên là Vương.

  1. Chín (Thầu Chín) – 1928

Nguyễn Ái Quốc hoạt động tuyên truyền trong Việt Kiều ở Thái Lan. Người thường di chuyển từ vùng này sang vùng khác. Khoảng đầu tháng 8-1928, Nguyễn Ái Quốc đến Uđon (Thái Lan), Người lấy tên là Chín. Mọi người tôn trọng gọi là “Thầu Chín” (ông già Chín).

  1. Tống Văn Sơ – 1931

Tống Văn Sơ là tên ghi trong thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc khi Người bị bắt ở số 186, phố Tam Lung (Cửu Long), Hồng Kông ngày 6-6-1931. Đây là kế hoạch giữa bọn mật thám Anh – Pháp lùng bắt những người cách mạng Việt Nam và cán bộ Quốc tế Cộng sản. Một chiến dịch điên cuồng tìm diệt cộng sản được chúng phát động trên quy mô lớn khắp vùng Đông Nam châu Á.

  1. Hồ Quang – 1938

Bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi Người hoạt động tại Trung Quốc từ cuối năm 1938.

Nhờ mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, mùa thu năm 1938, từ Matsxcơva Người đi Trung Quốc. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc (Tây Bắc Trung Quốc), văn phòng giải phóng quân đã chuẩn bị cho Người quân phục, phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang.

  1. Cúng Sáu Sán – 1941

Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước hoạt động ở vùng Pác Bó, Cao Bằng. Đồng bào địa phương không biết rõ về Người, nên một số dân bản thường gọi Người là Cúng Sáu Sán, có nghĩa là ông già ở rừng.

  1. Già Thu – 1941

Trong thời gian hoạt động ở Pác Bó, Cao Bằng các cán bộ địa phương thường gọi Nguyễn Ái Quốc là Già Thu.

  1.  Ông cụ - 1941

Trong những năm 1940 – 1945, các đồng chí hoạt động cách mạng và đồng bào ở vùng biên giới Việt – Trung thường dùng để gọi Bác.

  1.  Bác – 1941

Tên gọi “Bác”, xuất hiện từ dịp họp Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, tháng 5-1941 tại Pác Bó (Cao Bằng). Dịp đó đại biểu về dự Hội nghị được biết có đại biểu quốc tế là đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng có mặt. Lúc đầu, khi gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc mọi người không biết xưng hô thế nào. Hồi ký của đồng chí Hoàng Quốc Việt kể rằng: Mới đầu chúng tôi đều gọi Bác là đồng chí, rồi gọi là cụ, sau thấy anh Trường Chinh và anh Thụ dùng tiếng “Bác”, anh em thấy gọi như thế hợp với lòng mình, nên từ đấy chúng tôi bắt đầu thưa với Bác bằng cái tên thân yêu mà bây giờ chúng ta đều gọi. Tiếng “Bác” được dùng rộng rãi hơn từ sau năm 1945.

Sau này tên gọi Bác còn được ký dưới một số thư gửi các đồng chí Trung ương và Bộ Chính trị.

  1.  Thu Sơn – 1942

Tháng 1 năm 1942, với bí danh Thu Sơn, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến ở nhà đồng chí Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch) tại châu Nguyên Bình, Cao Bằng trong một số ngày.

 

HCM 29
Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản năm 1925
  1.  Hồ Chí Minh – 1942

Đầu những năm 1940, trước chuyển biến mới của tình hình cách mạng, một nhiệm vụ bức thiết đặt ra cho cách mạng nước ta lúc này là phải thực hiện sự liên minh quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của đồng minh. Để đánh lạc hướng bọn mật thám, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Ngày 13-8-1942, Người lên đường đi Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế phản xâm lược.

Sau mười lăm ngày đêm đi bộ trên đất Quảng Tây, ngày 27-8-1942, Người đến xã Túc Vinh thuộc huyện Đức Bảo thì bị tuần canh ở đây giữ lại. Khi kiểm tra giấy tờ, chúng phát hiện ngoài giấy giới thiệu của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế phản xâm lược ra, Hồ Chí Minh còn mang theo thẻ hội viên “Ký giả thanh niên Trung Quốc”, các giấy tờ của Hồ Chí Minh là phóng viên báo chí và giấy thông hành do văn phòng Bộ tư lệnh Đệ tứ chiến khu cấp từ năm 1940 đều đã quá hạn sử dụng. Chúng nghi ngờ Người là gián điệp, bèn bắt giữ và giải lên Tĩnh Tây rồi giải đi, giải lại trong suốt 13 huyện thị của tỉnh Quảng Tây.

Nhờ sự vận động tích cực của Đảng ta, của bà con Việt Kiều và sự can thiệp của nhiều nhân vật trong chính giới Trung Quốc, ngày 10-9-1943 Người được trả tự do. Sau khi Người ra tù, lần đầu tiên trên báo Đồng Minh (báo do tổ chức Việt Nam cách mệnh đồng minh hội phát hành ở Liễu Châu, Trung Quốc) xuất hiện tên Hồ Chí Minh ký dưới bài viết: Li Băng.

Sau cách mạng Thánh Tám năm 1945, khi đất nước giành được độc lập, Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó cho đến hôm nay và cho mãi tới muôn đời, tên Người sẽ còn sống mãi trong trái tim nhân loại.

  1.  Ông Ké – 1945

Chiều một ngày cuối tháng 4-1945, Nguyễn Ái Quốc trong bộ áo chàm người Nùng đến chiếc hang Pác Tẻng (chân núi đá Lam Sơn, Cao Bằng), của gia đình ông Hoàng Đức Triều (An Định). Người được giới thiệu với gia đình là “đồng chí Ông Ké”. Với bí danh Ông Ké, Người thường họp với các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Đặng Việt Châu, Dương Đức Hiền, Đặng Văn Cáp.

  1.  Bác Hồ - 1946

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, hai tiếng Bác Hồ trở nên gần gũi, thiêng liêng đối với mỗi người dân Việt Nam. Trong một số thư gửi các cháu thiếu niên nhi đồng, học sinh… Người thường ký hai chữ Bác Hồ. Thư đầu tiên ký tên Bác Hồ là: Thư gửi Ban âm nhạc Vệ quốc quân, 6-1-1946.

lkg

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946


Tài liệu tham khảo:

  1. Hồ Chí Minh: Biên niên sử, Nxb. Chính trị quốc gia, 1993, tập 2.
  2. Hồ Chí Minh: Biên niên sử, Nxb. Thông tin lý luận, 1992, tập 1
  3. Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tái bản lần thứ ba), Nxb. Chính trị quốc gia, 2007.

Tác giả bài viết: Phòng BTDT&TTTL (TH)

Nguồn tin: BQL các di tích Quốc gia đặc biệt tỉnh Cao Bằng

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây